Phân kỳ lịch sử Văn học Nhật Bản

Toàn tập lịch sử văn học Nhật Bản từ thượng đại đến hiện đại.

Thượng đại

Thời thượng đại Nhật Bản có thể tính từ Thiên hoàng Jimmu lập quốc theo huyền sử năm 660TCN tới hết thời Nara năm 794, thậm chí xa hơn tới năm 807 (chồng lấn vài năm sang thời kỳ Heian). Đây là thời đại trải suốt từ thời kỳ Jomon (Thằng Văn, 14.000TCN-400TCN), thời kỳ Yayoi (Di Sinh, 400TCN-250), thời kỳ Kofun (Cổ Phần, 250-538), thời kỳ Asuka (Phi Điểu, 538-710) trong đó thời Kofun và Asuka sau gộp lại là thời kỳ Yamato (Đại Hòa 大和, Nụy 倭) nói chung, thời kỳ Nara (Nại Lương, 710-794), tuy nhiên văn học Nhật Bản chỉ thực sự rõ nét từ thế kỷ 7 trở đi. Đây là thời đại của dân ca, huyền thoạicổ tích. Những sáng tác đầu tiên trong nền văn học khởi thủy của Nhật Bản là văn học truyền miệng, do trong thời kỳ sớm của sự phát triển lịch sử dân tộc Nhật Bản chưa hề có chữ viết. Khởi điểm là những câu chú, bài chú đọc trong lễ tế thần, về sau là văn học truyền miệng với thần thoại, ca dao, truyện cổ tích, truyền thuyết. Khi chữ viết mới xuất hiện đã trở thành đặc quyền của những đẳng cấp cao của bộ tộc Nhật Bản, lúc đầu là quý tộc thị tộc và bộ lạc, sau đó là giới quý tộc phong kiến. Những sáng tác thượng đại được biết đến ngày nay không phải là những biểu hiện sớm nhất mà có lẽ thuộc thời kỳ muộn hơn. Chúng được thực hiện bởi những đại biểu của đẳng cấp quý tộc, những người đã không chỉ sưu tầm mà còn biên tập tư liệu, và họ đã để dấu ấn của chính mình trên sản phẩm thông qua việc quyết định chất liệu và hình thức văn học cũng như lựa chọn những nội dung mà họ cho rằng có giá trị và cần thiết.

Những dấu vết của sáng tác dân gian thời kỳ sớm có thể tìm thấy trong những công trình chữ viết thời cổ, đó là Kojiki (古事記, Cổ sự ký, 712), Nihon Shoki (日本書紀, Nhật Bản thư kỷ, 720) với những bài ca, thần thoại, truyền thuyết; Manyōshū (万葉集, khoảng 760) với các thi phẩm về tình yêu, thiên nhiên và cái chết; Fudoki (風土記, Phong thổ ký, 713) với những truyền thuyết và truyện hoang đường v.v. và tất cả đều thuộc thế kỷ 7. Chất liệu của các công trình này xuất xứ từ thời kỳ xa xưa, thậm chí từ thời kỳ đầu của chế độ công xã nguyên thủy, hoặc có nguồn gốc từ thời kỳ đó. Tất cả đều cho thấy một bức tranh văn học Nhật Bản thời cổ là văn học dân gian theo đúng nghĩa đầy đủ của từ này, tuy chúng đã ít nhiều được tư liệu hóa và biên soạn theo chủ quan của các tác giả.

Trung cổ

Một trang kana viết tay Genji monogatari từ hậu kỳ Heian, thế kỷ 12

Thời Trung cổ Nhật Bản kéo dài chừng 4 thế kỷ từ khi vương triều Nhật Bản thiên đô về Heian (nay là Kyoto) và lập kinh đô (Heian kyo) theo mô hình kinh đô Trường An thời nhà Đường Trung Hoa năm 794, cho đến khi Mạc phủ Kamakura được thiết lập năm 1183. Đây là giai đoạn đỉnh cao của vương triều Nhật Bản, sau đó quyền lực chuyển dần sang dòng họ Fujiwara (từ năm 898). Sự phổ biến của chữ viết kana và sự thành lập các tông phái Phật giáo như Thiên Thai tông (năm 805), Chân ngôn tông (năm 806), Tịnh độ tông (1175). Đóng vai trò chủ yếu trong nền văn học trung cổ là quý tộc triều đình Heian quây quần chung quanh dòng họ Fujiwara (Đằng Nguyên) nắm quyền bính thời bấy giờ.

Sự tiếp xúc lâu dài với nền văn hóa Trung Hoa thời tiền Heian là tiền đề cho sự ra đời của chữ viết và người Nhật Bản lần đầu tiên biết khái niệm "văn học" đến từ các nước lân cận. Họ biết có một loại văn học viết, văn học như một bộ môn riêng biệt. Điều này làm thay đổi toàn bộ bức tranh sáng tạo văn học của Nhật Bản: bên cạnh nhân dân và văn học truyền miệng sản phẩm của họ, đã xuất hiện một lớp người không hát những bài ca mà sáng tác thơ, không sáng tạo ra các thần thoại mà soạn những truyện ngắn.

Văn học Heian trong các thế kỷ 9-12 cho thấy hai hệ thống riêng biệt: thứ nhất, đó là những sáng tác dân gian vẫn tồn tại và phát triển mạnh mẽ tuy ngày nay giới nghiên cứu hầu như chỉ còn biết đến diện mạo của chúng qua cái mà giới quý tộc Heian quan tâm, với các bài ca SabaraKagura-uta; là những truyện cổ tích và truyền thuyết dân gian trong Konjaku Monogatari (今昔物語集, Kim tích vật ngữ, khoảng năm 1120) và Kokon Chomonshū (古今著聞集, Cổ kim trứ văn tập). Thứ hai, xuất hiện nền văn học của một đẳng cấp hạn hẹp: thơ và văn xuôi Heian, tách biệt khỏi văn học dân gian bởi chất liệu là thế giới sinh hoạt và tư tưởng của quý tộc Heian.

Về phương diện hình thức, thi pháp của thơ waka được hình thành với hợp tuyển Kokin Wakashū (古今和歌集, Cổ kim Hòa ca tập, năm 905 hay 914 niên đại Engi) hay còn gọi là Kokinshū (Cổ kim tập); hình thức tiểu thuyết đã xuất hiện cùng với những sáng tạo khởi đầu là Taketori Monogatari (竹取物語, Trúc thủ vật ngữ, tức "chuyện ông già đốn trúc", cuối thế kỷ 9), đi được một nửa chặng đường đến Ise Monogatari (伊勢物語, Y Thế vật ngữ, "truyện Ise" đầu thế kỷ 10) và đạt đỉnh cao với Genji Monogatari (源氏物語, Nguyên Thị vật ngữ, khoảng 1004-1011, nhưng thường được lấy mốc 1010); nhật ký với Tosa Nikki (土佐日記, Thổ Tá nhật ký, 935) và tùy bút với Makura no Soshi (枕草子, Chẩm thảo tử, "sách gối đầu" 936 hay 1001?).

Trung thế

Trận Dan-no-Ura năm 1185 được miêu tả trong Heike monogatari, anh hùng ca phong kiến Nhật Bản

Thời kỳ mới trải suốt thời kỳ Kamakura (1185-1333), Tân chính Kemmu (1333-1336), thời kỳ Muromachi (1336-1573 [gồm Nanbokucho 1336-1392, Sengoku 1392-1467 và 1467-1573]) và thời kỳ Azuchi-Momoyama (1568-1603), bắt đầu với sự xuất hiện đẳng cấp samurai ghi dấu vào lịch sử bằng những cuộc nội chiến đẫm máu bao trùm toàn bộ nước Nhật giữa hai dòng họ lớn Taira và Minamoto kéo dài đến khi Minamoto Yorimoto trở thành tướng quân (Shogun), thiết lập chế độ Mạc phủ ở Kamakura miền Đông nước Nhật, mở đầu thời đại võ gia. Đây cũng là giai đoạn các võ sĩ Nhật Bản đương đầu với thủy binh Mông Cổ trong hai lần chống ngoại xâm (năm 1274/1275 và 1281). Năm 1333 tướng phủ Kamakura bị lật đổ và năm 1338 Ashikaga lập tướng phủ ở Kyoto. Năm 1500 nội chiến lan ra cả nước với nhiều phong trào nông dân nổi dậy và phải tới tận giai đoạn 1568-1598 đất nước mới thống nhất dưới thời Oda NobunagaToyotomi Hideyoshi.

Những cuộc chiến đã làm nảy sinh dạng thức sử thi dân gian mới với không gian không còn là thần thoại về các vị thần mà là truyền thuyết về những anh hùng, những gunki (quân ký) hay genki (chiến ký). Nhân vật trung tâm của tác phẩm chuyển hướng từ nhân vật thần thoại trở thành cá nhân lịch sử, những người tham dự và những anh hùng của sử ca dân gian. Dấu ấn văn chương trung thế là sự ra đời của những anh hùng ca phong kiến Nhật Bản, như tác phẩm Heike Monogatari (平家物語, Bình Gia vật ngữ, 1220-1371), mô tả những võ sĩ đạo và bóng trăng mờ ảo sau những trận mưa máu, mà cảm quan về sự phù du của cõi người còn in đậm ngay từ những dòng thơ mở đầu tác phẩm.

Văn học của tầng lớp samurai tồn tại không ít hơn bốn thế kỷ, từ thế kỷ 13 đến thế kỷ 15 và đã trải qua những hưng thịnh và suy vong. Các tác phẩm như Hogen Monogatari (Bảo Nguyên vật ngữ), Heiji monogatari (Bình Trị vật ngữ) và Heike monogatari của thế kỷ 13 gắn bó chặt chẽ với thực tế lịch sử của thời kỳ này: lịch sử cuộc chiến giữa hai tập đoàn quý tộc phong kiến Nhật Bản, dòng họ Minamoto (源, Nguyên) và dòng họ Taira (平, Bình). Những tác phẩm này thể hiện sự khốc liệt của cuộc chiến, và những người tham gia vào nó được diễn tả trọn vẹn cả lý tưởng và lối sống. Về sau những anh hùng ca này thay đổi tính chất và được tiểu thuyết hóa, tạo nên những truyện phiêu lưu hiệp sĩ vốn rất quen thuộc với phương Tây đương thời, mà tác phẩm anh hùng ca về nhân vật Yoshitsune, cuốn Gikeiki (義経記, Nghĩa kinh ký) là một điển hình.

Nền văn học của các võ sĩ đạo đương thời cho thấy một bức tranh rộng lớn hơn nhiều so với văn học quý tộc thời Heian: văn học Heian được sáng tạo trong phạm vi hạn hẹp, thuộc tầng lớp cao của giai cấp quý tộc, trong khi đó văn học samurai mở rộng phạm vi giữa các chiến binh phong kiến, tầng lớp đông đảo đã thoát khỏi giai cấp nông dân còn chưa lâu hoặc về thực chất họ vẫn còn thuộc tầng lớp đó.

Những sáng tác văn xuôi của thời trung thế cho thấy chất liệu gắn bó chặt chẽ với văn học dân gian truyền miệng và mang đậm đặc tính dân gian hơn giai đoạn trước.

Trong văn học trung thế, bên cạnh tiến trình văn xuôi samurai, thi ca cũng tương tự. Những sáng tác dân gian đã xuất hiện những hình thức mới, như các bài ca imayo, được ghi lại bằng chữ viết từ mạt kỳ Heian nhưng phổ biến trước hết trong giới võ sĩ đạo. Trên mảnh đất của thi ca dân gian vui nhộn, bông lơn, hình thành nên thể loại thơ trào lộng haikai (俳諧, bài hài) mà những hình thức xa xưa hơn của chúng được hát tại các chùa chiền và ở các gia đình samurai tu hành, về sau đã được chú ý bởi các nhóm rộng rãi thuộc tầng lớp chiến binh, thương nhân và thợ thủ công nơi đô thị.

Cận thế

Matsuo Bashō, bậc thầy của thể thơ haiku

Thời kỳ cận thế Nhật Bản nằm trọn trong thời kỳ Tokugawa (1603-1868). Năm 1600 Tokugawa Ieyasu đập tan các cuộc nổi loạn ở Sekigahara và tới 1603 Tokugawa Ieyasu thống nhất đất nước, thiết lập Mạc phủ ở Edo (nay là Tokyo). Trong 200 năm tỏa quốc sau đó (kéo dài cho tới tận 1853 khi Đô đốc Matthew C. Perry (1794-1858, người Mỹ) buộc Nhật Bản phải mở cửa thông thương với nước ngoài) đất nước thanh bình, kinh tế tiền tệ phát triển, giáo dục nâng cao và hầu hết người dân thành thị biết đọc biết viết. Người dân thành thị trở thành trung tâm của xã hội và cuộc sống của họ phản ánh rõ nét trong văn học nghệ thuật.

Trong những năm cuối của thời kỳ Ashikaga, thế kỷ 15-16, những sáng tạo dân gian mà giai đoạn Kamakura được giới samurai quan tâm, đã không ngừng lại và được thẩm thấu tới một tầng lớp mới, hình thành một nền văn học khá đặc biệt so với giai đoạn trước đó: văn học của tầng lớp thị dân, nền văn học mất đi vẻ thanh tao nhưng tràn đầy sức sống của hiện thực với tất cả mọi khía cạnh như con người, cái đẹp, thiên nhiên, sắc dục. Đẳng cấp samurai giai đoạn đầu còn liên hệ chặt chẽ với nông dân, sau đó đã tách biệt trở thành quý tộc phong kiến và đóng kín trong phạm vi của mình. Ngược lại, giới thương nhân và thợ thủ công ngày càng liên hệ nhiều với đông đảo cư dân rộng lớn, với nông dân. Kết quả là sự ra đời của một loạt các thể tài sân khấu của giai cấp tư sản Nhật Bản thời phong kiến, những tác phẩm kịch (能) và kabuki (歌舞伎) thành thị thoát thai từ lối kể chuyện joruri (浄瑠璃, tĩnh lưu ly, một dạng múa rối). Loại truyện dân gian otogi zoshi (お伽草子) và những lối kể chuyện dân gian khác là khởi nguyên của các truyện ngắn theo thể kana zoshi (仮名草子). Rồi từ ngọn nguồn này nhiều thể loại khác của văn xuôi tự sự thời đại Tokugawa đã phát triển.

Cùng với điều đó, những nhà hoạt động văn học, tức tầng lớp thị dân, đã góp phần mình vào folklore, nghĩa là vào ngọn nguồn của nền văn học viết mới với các truyện kể được gọi là kodanrokugo. Hai hình thức truyền miệng này dần được ghi chép lại và tạo thành một bộ phận hoàn chỉnh của văn học thành thị đương thời, thêm vào đó chúng còn cung cấp chất liệu cho các bộ phận khác của nền văn học này.

Về thơ, những thể loại thơ của quý tộc thời Heian được phổ cập rộng rãi trong cộng đồng đã dẫn đến sự sáng tạo ra thơ thành thị riêng của thời kỳ Tokugawa khi nó được kết hợp với folklore dân gian. Đó là các thể tài haikai (俳諧, bài hài) và senryu (川柳, xuyên liễu).

Những tác gia tiêu biểu của thời đại có thể kể đến Matsuo Basho (1644-1694) với thơ haiku, Chikamatsu Monzaemon (1653-1725) với kịch và Ihara Saikaku (1642-1693) với tiểu thuyết.

Cận đại

Thời kỳ cận đại trong văn học Nhật Bản bắt đầu từ Minh Trị Duy Tân năm 1868 tới kết thúc thời kỳ Đại Chính năm 1926. Năm 1867 Mutsuhito lên ngôi, hiệu là Meiji (Minh Trị) và năm 1868 dời đô về Edo đặt tên là Tokyo, bắt đầu kỷ nguyên hiện đại hóa đất nước theo mô hình phương Tây, thay đổi chính sách trục xuất người nước ngoài bằng chính sách khai hóa văn minh, phú quốc cường binh, văn minh phương Đông kỹ nghệ phương Tây, khiến quốc gia hưng thịnh và trở thành một mẫu hình hiện đại hóa đất nước thành công độc nhất vô nhị tại Đông Á đương thời. Bên cạnh việc đưa trí thức sang châu Âu học hỏi, Nhật Bản đã bắt đầu đưa quân vào lục địa như tiến đánh Đài Loan năm 1874; buộc Triều Tiên mở cửa năm 1875; chiến tranh Thanh-Nhật năm 1894-1895; chiến tranh Nga Nhật năm 1904-1905, và chiến thắng nước da trắng đầu tiên đã khiến Nhật manh nha ý thức đại đế quốc.

Sự hình thành văn học viết của các đẳng cấp thị dân đã đưa kết quả là nó dần xa rời những cội nguồn dân gian ban đầu của mình và chuyển thành văn học của một giai cấp, văn học của tư sản Nhật Bản, văn học hậu kỳ phong kiến Nhật Bản. Với sự nối tiếp truyền thống của văn học đô thị Tokugawa và nhờ ảnh hưởng của cách mạng Duy Tân Minh Trị, văn học tư sản của thời đại mới ra đời.

Trong khoảng những năm từ giữa thế kỷ 19 tới thời điểm kết thúc kỷ nguyên dân chủ Đại Chính, văn học Nhật Bản khởi phát bằng những vận động mạnh mẽ chưa từng có trong suốt 12 thế kỷ văn chương quá khứ. Hàng loạt những trào lưu đương thời của phương Tây, thông qua sách dịch tràn lan trong suốt cuộc Duy tân Meiji (Minh Trị, 1868-1912) và đầu thời Taishō (Đại Chính, 1912-1926), đã phân hóa giới cầm bút trong nước thành nhiều dòng phái nhiều khi đối đầu quyết liệt.

Văn hào Natsume Sōseki trong một bức ảnh chụp năm 1912, năm kết thúc kỷ nguyên Minh Trị

Có thể nhận thấy trong thời Meiji văn học đặc trưng bởi 5 khuynh hướng rất khác xa nhau: Phái truyền thống với Kōda Rohan (1867-1947), Ozaki Kōyō (1867-1903), Izumi Kyōka (1873-1939) viết về đề tài lịch sử và đương đại bằng lối văn truyền thống trang nhã, hoàn toàn thoát khỏi bức xạ của tư tưởng phương Tây đương thời, các giá trị thẩm mỹ là sự tiếp nối hoàn hảo văn chương thị dân thời Edo (1603-1868). Phái theo truyền thống một cách khách quan phản ứng lại những định kiến hay tán dương thái quá của người nước ngoài về Nhật Bản với đại diện Okakura Kakuzō (1862-1913), thiền sư Suzuki Daisetsu Teitaro (1870-1966); Phái sáng tạo từ cuộc đối đầu văn hóa là sự hòa trộn ưu thế văn minh Đông-Tây, tạo ra một lối văn xuôi mới cho tiếng Nhật với các đại diện Nagai Kafū (1879-1959), Kinoshita Mokutarō (1885-1945), Ishikawa Jun (1899-1987), Nakano Shigeharu (1902-1979), Natsume Sōseki (1867-1916); Phái Cơ đốc giáo và phái xã hội chủ nghĩa với các lãnh tụ Niijima Jō (1843-1890), Uchimura Kanzō (1861-1930); Phái trẻ địa phương và chủ nghĩa tự nhiên với phong cách thông tục thuần túy, quy tụ những tiểu thuyết gia như Tsubouchi Shōyō (1859-1935), Tayama Katai (1871-1930) và Masamune Hakuchō (1879-1962).

Đầu thế kỷ 20 những sáng tác theo khuynh hướng tự nhiên dần chiếm ưu thế trên văn đàn. Nhưng sau giai đoạn cực thịnh vào khoảng những năm 1909-1910, bước vào thời Taishō chủ nghĩa tự nhiên mất hẳn động lực sáng tạo trước những thành công của các nhà văn theo khuynh hướng phản tự nhiên chủ nghĩa bao gồm Dư dụ phái (yoyūha) với các đại biểu Natsume Sōseki (1867-1916), Mori Ōgai (1862-1922), Masaoka Shiki (1867-1902); Chủ nghĩa duy mỹ (Yuibishugi) với Kitahara Hakushū (1885-1942), Kinoshita Mokutarō, Yoshi Isamu (1886-1960), Nagai Kafū, Tanizaki Jun’ichirō (1886-1965), Bạch hoa phái (Shirakaba) của Arishima Takeo (1878-1923), Arishima Ikuma (1882-1974), Nagayo Yoshirō (1888-1961) và Chủ nghĩa tân hiện thực (Shingenjitsushugi) với Akutagawa Ryunosuke (1892-1927) cùng những đồng sự[4]. Trào lưu tiểu thuyết tự thuật, hậu duệ của chủ nghĩa tự nhiên lên ngôi trong sự đối trọng với các cây bút tân hiện thực.

Về thơ, năm 1882 đánh dấu một mốc lớn đầu tiên của tiến trình hiện đại hóa thơ ca Nhật Bản khi Toyama Seiichi (1848-1900), Yatabe Ryokichi (1851-1899) và Inoue Tetsujiro (1855-1944) ba giáo sư Đại học Tokyo, trong khi dịch thơ Tây phương, đã thử sáng tác một số bài thơ theo phong cách châu Âu đương thời và cho in thành tập mang tên Shintaishi-sho (Tân thể thi sao). Shintaishi (tân thể thi, hay "thơ mới"), trong sự đối trọng với truyền thống Wakahaiku cổ xưa, đã không mất nhiều sức thuyết phục để được những cây bút trẻ nồng nhiệt đón nhận và thể nghiệm. Dần được thừa nhận về sau, đặc biệt với sự ra đời của thơ tự do vào những năm cuối của thời Meiji, thơ mới đã nở rộ cùng sự nở rộ của một loạt trào lưu văn học như chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa tượng trưng, khuynh hướng ấn tượng, thơ duy hiện đại vào nửa cuối của thời Taishō cho đến hết sơ kỳ Shōwa.

Hiện đại

Văn hào Kawabata Yasunari, 1951

Thời kỳ hiện đại trong văn học Nhật Bản xuyên suốt Thời kỳ Chiêu Hòa (1926-1989) và cũng có thể được chia làm ba giai đoạn chính: Chiêu Hòa sơ kỳ (1926-1945), trung kỳ (1945-1952) và hậu kỳ (1952-1989). Giai đoạn Thế chiến đầu thời Shōwa (Chiêu Hòa, 1927-1985) đến năm kết thúc chiến tranh 1945 chứng kiến sự đụng độ của hai dòng văn học chính: văn học vô sản (Puroretaria bungaku) "vị nhân sinh" với các đại diện Tokunaga Shunaō (1899-1958), Kobayashi Takiji (1903-1933), và trường phái tân cảm giác (Shinkankaku-ha) "vị nghệ thuật" với đại diện Yokomitsu Riichi (1898-1947), Kataoka Tetsubei (1894-1944), Kawabata Yasunari (1899-1972), Nakagawa Yoichi (1897-1994).

Giai đoạn hậu chiến 1945-1952 với chính sách chiếm đóng quản thúc của Liên hiệp quốc đại diện là Mỹ kết thúc nhờ Hiệp ước giảng hòa San Francisco năm 1951. Từ 1955 nước Nhật bước vào giai đoạn tăng trưởng kinh tế cao độ, và những thành tựu ghi dấu sự phát triển vượt bậc của kinh tế quốc gia có thể kể đến trong giai đoạn này là sự kiện Olympic Tokyo năm 1964 khi đường sắt cao tốc với tàu Shinkansen được giới thiệu, và triển lãm Quốc tế Osaka năm 1970. Năm 1973 cú sốc dầu lửa khiến tăng trưởng nóng chững lại nhưng sau đó sự tăng trưởng kinh tế trở nên đều đặn và ổn định. Cùng với vị thế nâng lên trên trường quốc tế về kinh tế, văn hóa và văn học Nhật Bản lan tỏa, được quan tâm tìm hiểu và và được giới thiệu tại nhiều quốc gia, châu lục. Về văn học, các sự kiện đáng chú ý nhất giai đoạn này có thể kể đến là giải Nobel văn học đầu tiên của Nhật Bản (và thứ ba của châu Á) do Hội đồng Nobel Na Uy trao cho văn hào Kawabata Yasunari năm 1968, đúng dịp kỷ niệm 100 năm hiện đại hóa nước Nhật nói chung và hiện đại hóa văn học Nhật Bản nói riêng tính từ cuộc cải cách Minh Trị; và sự kiện nhà văn Mishima Yukio tổ chức chiếm cơ quan Cục phòng vệ Nhật Bản thất bại, tự sát bằng nghi thức seppuku năm 1970.

Đương đại

Văn hào Ōe Kenzaburo

Văn học đương đại Nhật Bản có thể tính từ kỷ nguyên Bình Thành (từ 1989 tới nay). Đây là giai đoạn tại Nhật Bản tăng trưởng kinh tế chững lại, bong bóng tài chính bị vỡ và bắt đầu kỷ nguyên trì trệ và suy thoái kinh tế. Nhà văn Ōe Kenzaburo (1935-) mang về cho nước Nhật giải Nobel văn chương thứ hai vào năm 1994.

Trong giai đoạn này cũng chứng kiến sự nổi lên của "hai Murakami và một Banana": Murakami Haruki (1949-), Murakami Ryu (1952-), và Banana Yoshimoto (1964-).